ĐẠI THIÊN THẦN (Clairvoyance Investigation)

Đại Thiên Thần 
Clairvoyance Investigation
Geoffrey Hodson

Việc tìm hiểu về thế giới thiên thần và cộng tác với các vị cho tôi thấy là có một ngành thiên thần liên hệ chặt chẽ với sự tiến hóa của sự sống trong hình thể, các ngài có phần việc là thúc đẩy diễn trình tiến hóa, cũng như đi kèm với việc này là giúp phóng thích sự sống bị cầm giữ nơi một loài - thí dụ kim thạch - được mau lẹ hơn, và khiến nó được hấp thu thành chất phức tạp dùng cho cơ thể loài người. Một số vị như thế là thiên thần núi hay thần cây. Lại còn có những thiên thần âm nhạc, hằng làm vang vọng luôn luôn cái Âm sáng tạo trong những cảnh giới vô sắc tướng của thiên nhiên, và tôi tin chắc là các ngài tiếp tục cho ra ảnh hưởng trợ giúp sự tiến hóa của sức sống trong khắp thiên nhiên lẫn phần tâm linh sâu kín nhất của người.
Do việc làm tuôn tràn ‘Kundalini - điện huyền bí’ vào sự sống đang mê ngủ của kim thạch, sự sống này trở nên đáp ứng hơn với năng lực thúc đẩy sự tiến hóa mà Thiên thần Vùng ở khắp nơi trên thế giới cho tẩm nhập vào sức sống trong kim thạch và cỏ cây. Năng lực tuôn xuống này cũng được làm rung động ở tần số của thiên ý ứng với việc phân tử kết hợp, hình thể tạo thành và dạng cây cỏ trong loài thảo mộc. Như vậy lực mà thiên thần phóng ra và đi vào kim thạch, cây cỏ trên mặt đất thực hiện hai nhiệm vụ song song. Một là giục giã sự tiến hóa của sự sống bên trong, hai là làm cho nó đáp ứng nhiều hơn với tư tưởng thiêng liêng tạo hình, và nhờ vậy gia tăng mức thấu nhập của lực, khiến vật chất trở nên dễ uốn nắn, sẵn sàng hơn trong việc tạo muôn hình vạn trạng theo Thiên Ý.
Những nơi quan sát trong sách là ở New Zealand.

Thiên Thần Kundalini

Sâu thẳm tận trong lòng địa cầu, trung tâm trái đất, Kundalini hay sức sống vươn lên như suối lửa chấy lượn vòng dưới dạng cô đọng qua suốt ngọn núi, bắn tung vào không lên cao hơn 300 m. Ở giữa dòng suối ấy, khoảng trên đỉnh ngọn núi thấy có một đại thiên thần mà xuyên qua ngài và bên trong ngài, ba nguồn lửa của Kundalini tuôn chảy.
Phần hào quang bên dưới của ngài loe rộng sâu đến hàng trăm thước, giống như cái tách úp ngược rộng miệng. Đường lửa khi chạm đến thân hình thì tụ lại thành một dòng với ba đường chính: Ida (âm), Pingala (dương), và Sushumma (trung tính). Dòng Kundalini chảy lên cao xuyên qua giữa thân, Ida đi bên trái, Pingala bên phải còn Sushumma ở giữa ‘đầu’ nhưng cả ba cùng đi lên và nở lớn.
Sinh lực kích thích tuôn tràn mạnh mẽ từ phía cao bên trên thiên thần, và bên dưới xuyên qua hào quang, nhưng không nằm trong vùng giữa hào quang. Nó cho ra ảnh hưởng giống như một trụ có chuyển động bên trong thiên thần không ngừng, tựa cái quặng úp ngược, đi xuống tận đá nằm hơn 800 m bên dưới.
Các trung tâm lực hay những xoáy lực ở giữa người thiên thần cho lực thông thương giữa các cõi, chúng nằm ở vị trí bình thường trong người thiên thần như ở thể của ta, chói rạng lạ lùng vừa ra trước, ra sau và cả hai bên. Mỗi trung tâm lực vì vậy bốn chiều và là một nguồn phát lực.
Tôi có cảm tưởng là năng lực Kundalini được rút lên từ bên trong, tụ quanh thân của thiên thần và lực túa rải chung quanh thành hào quang của ngài. Thân hình ở giữa cao ít nhất gấp ba ngọn núi, hay có thể cao hơn.

Đại Thiên Thần
Onerahi, Whangarei, Bắc Aukland

Trong lần đi nghỉ hè ở Onerahi, nhà tôi và tôi bàn luận về thiên thần và vai trò của các ngài trong thiên nhiên. Đột nhiên trong khoảng không gian bên ngoài cửa sổ khách sạn hiện ra nhiều thiên thần to lớn, chiếu sáng rực rỡ. Một trong các vị đến gần chúng tôi hơn và truyền tư tưởng sau vào tâm tôi, ‘Với người biết nhìn, quả thật chúng tôi là hiện thân của những diễn trình sáng tạo vĩ đại bên ngoài, phát xuất từ nguồn sâu thẳm nhất của vũ trụ ở mọi mức độ của thiên nhiên.’
Chưa bao giờ tôi thấy một vị cao cả như vậy. Với khả năng giới hạn của mình tôi chỉ có thể tả đó là một trung tâm sáng tạo đầy ánh sáng thiên thần. Tư tưởng tạo hình, lực và ánh sáng có vẻ như chiếu rọi từ những trung tâm lực hình ngôi sao bên trong thiên thần ra ngoài. Vị đại thiên thần này cho ta cảm tưởng như ngài một tay thực hiện việc tạo hình và giữ gìn vùng này, với tâm thức lan rộng bên ngoài vũ trụ. Phần trên của hào quang rộng lớn, chói sáng thấy luôn có một số ngôi sao mầu trắng năm góc, thuộc bốn chiều đo. Lạ lùng thay chúng cũng không ngừng chiếu nhấp nháy liên tục, phát ra ánh sáng của chúng rồi sau đó biến mất như thể nguồn sáng đã làm xong việc thể hiện. Việc cứ tiếp tục như thế trong vùng phía trên của hào quang, đằng trước, đằng sau và cả hai bên của ngài.
Mầu xanh lá cây nổi bật trong phần dưới hào quang cho tới huyệt đan điền - solar plexus, có lẫn vàng và trắng, hơi giống như các tia chiếu sáng qua đó. Hào quang tỏa ra cho cảm tưởng là đôi cánh, mầu xanh da trời chen màu vàng, rực rỡ phía trên ‘vai’ bắn lên cao trong không. Đôi ‘mắt’ trông như là hai trung tâm ánh sáng lớn hơn là mắt người, và màu vàng chói sáng bên trong ‘đầu’ cùng túa lên cao. Hào quang của ngài tựa như có cánh và tuôn lực theo hình đôi cánh.

Đại Thiên Thần
Lion Rock, McLeod’s Bay, Whangarei Heads

 Thân hình và ‘đầu’ của ngài vượt lên cao núi đá. Phần hào quang tuôn xuống dưới bao trùm cả rặng núi ba chiều. Màu chính là tím túa ra bên ngoài với màu xanh sáng của cỏ hướng xuống biển. Những đường lực mầu trắng hẹp hơn cũng chảy xuống bên trong và bên ngoài thân hình, cho cảm tưởng như đó là nếp gấp hay lằn xếp của hào quang.
Một lực trắng, có tác dụng thúc đẩy sự tiến hóa tuôn từ phần dưới hào quang vào sâu trong đá bên dưới, qua khỏi mặt nước, xuống sâu khoảng phân nửa chiều cao của núi. Ta thấy có hoạt động sáng suốt, kích thích hiện rõ, với sự chú tâm gần như vượt hẳn ý niệm của người, làm như nó do siêu nhân thực hiện với năng lực mạnh mẽ khôn cùng. Sinh lực tinh thần tuôn xuống dưới, tỏa rộng bao trùm núi, đi sâu dưới biển, lan ra ngoài khơi cũng như vào đất liền chung quanh.
Thêm vào đó, từ trên ‘vai’ và quanh phần giữa thân hình có một dòng lực màu xanh dương chảy thẳng xuống đất, rồi trộn lẫn với lực màu tím và trắng đã nói. Nếu ước tính vị trí thì ‘đầu’thiên thần cao khoảng gấp ba lần ngọn núi bên phải. Hào quang trước mặt, bên trong của ‘đầu’ và ‘cổ’ cho tới ‘tim’ có màu tím, bìa nhạt hơn, cho ra hình dạng tuy mờ nhưng vẫn rõ ‘đầu’ người, ‘cổ’, ‘vai’ và ‘tim’. Từ chỗ sau cùng lực phóng ra theo đủ hướng tựa hình chữ thập như ánh hải đăng, vượt quá khả năng quan sát của tôi ở cõi tâm linh. ‘Cổ họng’ cũng rực sáng màu xanh cỏ đã tả, còn trung tâm lực ở ‘mắt’ có đường kính vào khoảng hơn 9 cm.
Tâm thức trụ ở ‘đầu’, có lực tinh tế và thanh bai hơn tỏa ra một vùng rộng lớn hơn, gấp sáu lần đường kính ấy. Nhìn ở cõi cao lực mầu trắng tuyệt đẹp, vàng chói và tím túa ra khỏi tầm nhìn của tôi. Trong khi lực không ngừng ào ạt tuôn chảy, bên trong dòng thấy có những lóe bùng mầu vàng trắng, cho ra vòng vương miện tuyệt sắc chói ngời, phía trên lực túa thẳng đứng. Cũng nơi tâm thức cao như Atma, Buddhi, Thượng trí, ta thấu hiểu vị đại thiên thần rõ hơn. Cái lạ lùng là ở nơi đó tính cá biệt của ngài lộ thật rõ, ‘Ngã Tánh’ hiển hiện nơi linh hồn thiêng liêng cao cả này, màu chính thấy như là trắng có trộn tím và các sắc của hoàng ngọc.
Tôi cho rằng ngài là đại thiên thần cung một, coi sóc vùng Whangarei ít nhất từ thời Atlantis, vì vậy có cảm tưởng là những đường túa ra xuống dưới mang tính chất thúc đẩy, làm cuộc tiến hóa mau lẹ hơn, và đi sâu vào phần đất dưới nước của vịnh. Ảnh hưởng cũng y vậy trên một vùng rộng lớn của bờ biển chìm dưới nước ra xa ngoài khơi, trùm luôn các đảo và xa hơn nữa, cách núi khoảng 70 km. Đông đầy các thiên thần khác, từ cao cho đến những thiên tiên hợp lực với ngài, làm việc trong đường lực mà đại thiên thần hướng dẫn và hào quang của chính ngài. Cuộc tiến hóa của tất cả giới thiên thần được thúc đẩy mạnh hơn, và cùng lúc có thêm được khả năng và sử dụng chúng, nhờ vậy, sinh vật trợ giúp hữu hiệu hơn trong việc chuyển lực tiến hóa xuống phần đất bên dưới.
Khi quan sát vị đại thiên thần này, tôi cảm xúc mạnh mẽ với tâm thức của ngài, nó tĩnh lặng, hoàn toàn không vướng mắc chuyện gì khác ngoài phận sự chính yếu trên địa cầu mà nó hướng hết tâm trí về. Không giống như các thiên thần khác mà tôi đã nghiên cứu, nỗ lực quan sát của tôi không gây nên đáp ứng gì. Tôi cho là tâm thức hoàn toàn trụ ở cõi Niết Bàn, mức tinh thần cao nhất mà bây giờ tôi thấy hiện tượng lạ lùng, là một năng lực trắng tinh tuyền chiếu ra bốn hướng chính: biển, vào đất liền và hai hướng khác thẳng góc hai bên. Trung tâm là phần Atma tinh túy, cái đặc tính thiêng liêng còn những tia sáng tạo nên phần cốt tủy của ba thể Atma, Buddhi và Thượng trí, mà như đã nói, từ đó tỏa ra những đường lực chói lòa nhấp nháy. Mỗi dòng làm như rực sáng từ bên trong, màu chính là tím và xanh lục có lẫn mầu trắng. Không những  đường lực gồm những làn riêng rẽ không đứt quãng, tuôn chảy đều đặn, mà có luôn cả những nét gẫy nhỏ, mỗi cái mang tính chất cô đọng nhằm thúc đẩy sự tiến hóa và giục giã sức sống một cách sâu xa.
Tím là mầu chính của phần dưới hào quang. Chuyện kỳ lạ là từ ‘cổ’ và ‘vai’ trở xuống cho tới gần sát mặt đất, hình dạng không giống hình người và loe ra hình quặng, mà lại như khối vuông bốn mặt, và rất đỗi hùng mạnh. Cái trung tâm cốt lõi này, hay phần căn bản giữ cho vững vàng trọn cơ cấu thể và là phần kéo dài của thể, đi sâu xuống tới cảnh thấp cõi tình cảm, gần đụng cõi trần. ‘Vai’ của thể cao ngang với đỉnh cao nhất bên trên mặt nước.
Tổi cảm nhận lần nữa sự an nhiên tuyệt đối, hoàn toàn vô ngã, gần như mà chưa phải hoàn toàn là cứng rắn như đá. Nó giống như của vị đại thiên thần vùng North Island của New Zealand, với tâm thức như trụ sâu vào bên trong, hòa nhập tan vào với cái Vô Cùng vốn là nguồn cội vạn vật. Ở những cảnh giới cao ấy, tôi nghĩ có một điều mà ta có thể gọi là tĩnh lặng hoàn toàn, sự vững như đá, tính chắc chắn đã phát triển qua muôn ngàn thời đại như là một biểu hiệu của đấng tối cao.
Nghiên cứu thêm cho thấy tôi đã nhận xét đúng về vị đại thiên thần ở North Island. Bây giờ tôi ý thức vẻ thản nhiên và tĩnh lặng là việc cần cho nhận thức bên trong, và việc điều khiển lực bên ngoài. Giống như máy điện làm bằng thép và tự nó bất động, cho dù có chuyển động xảy ra bên trong và bên ngoài nó, thì vị cao cả cũng có thể được ví một cách thích hợp là máy phát và phân phối lực thiên thần, như là một nguồn khổng lồ của tâm thức và sức sống trong thiên nhiên, là chất kích thích sự tiến hóa. Xanh lục và xám đá với lóe hay vùng có màu vàng chói là những màu của trạm phát điện thiên thần.
Trọn hào quang túa ra xa khoảng hơn 1 km quanh núi, và có những dòng lực mạnh mẽ hay đường lực của hào quang. Cộng vào đó từ ‘vai’ của thiên thần lực mở rộng với lực chảy lên trên, phần lớn là màu lục và vàng chói với vàng nhạt nằm trên; ‘cổ họng’ có luân xa thật lớn đa sắc, luân xa hướng về cả trước và sau, có phận sự tiếp nhận và truyền lực từ cõi Atma trở lên trong thái dương hệ.
Từng đoàn thiên tiên chưa cá nhân hóa đi động không ngừng bên trong, và xuyên qua năng lực tuôn tràn theo mọi phía, nhưng nhất là từ ‘vai’ và bên ‘đầu’. Tâm thức của ngài gây nơi tôi một ấn tượng sâu xa, vì nó hết sức tĩnh mặc, không lay chuyển, không xao động, và do vậy bảo đảm cho việc tiếp nhận và phân phối năng lực vĩ đại mà ngài chịu trách nhiệm cho vùng. Tôi tin rằng thiên thần có địa vị hết sức quan trọng, gần như ở mức hành tinh, nắm giữ việc điều khiển năng lực cho địa cầu. Trên trái đất rải rác có những đại thiên thần như vậy, hành xử như là trung gian đón nhận và chuyển di ở khắp mặt đất. Một vị như thế là đại thiên thần của sa mạc Karoo ở Phi câu, còn Nam và Bắc cực cũng có những trung tâm túa rải lực của đại thiên thần.
Và như vậy toàn khối trái đất được giữ thăng bằng theo một cách bí ẩn khó hiểu với ta. Tôi quan sát thấy nguyên lý này biểu hiện giống như ngôi sao sáu cạnh ở cõi thượng trí, còn ở cõi hạ trí và tình cảm không có hình như vậy.
Tôi cũng có ý thức về một vị đại thiên thần có liên hệ đến phái nữ, biểu lộ nguyên lý nữ thiêng liêng ở cõi tinh thần cao tột. Ngài đội vương miện khác hẳn, chiếu sáng rực rỡ. Vương miện gồm phần chính yếu là một vòng ánh sáng quanh ‘đầu’, giống như kết đầy ngọc quí vòng ngang trán. Từ đó và từ các luân xa lực tuôn chảy rộng dần.
Màu tím dường như có nhiều trong hào quang của nữ thần, và khác với nét vững vàng không chút xao động của đại thiên thần, vị nữ thần di chuyển tự do rất cao trong không. Tôi không thấy được phận sự của ngài, trừ điểm có vẻ như ngài góp năng lực dưới dạng các trung tâm lấp lánh như ánh sao, hòa chúng vào phần hào quang nằm trong của đại thiên thần, và nhờ thế gìn giữ sự thăng bằng của năng lực bên trong bằng cách bổ sung lượng lực rải ra bên ngoài.
Vị nữ thiên thần gửi đến tôi tư tưởng sau: Ta gìn giữ sự quân bình năng lực ở trung tâm và của riêng vị đại thiên thần. Khi làm vậy, có sự hoán chuyển các năng lực âm và dương giữa ngài và ta, và trong tiến trình ta lửng lơ bất động. Như thế ta nhận và đóng góp tuy phần lớn công việc của ta mà không phải là trọn việc, là giúp duy trì cái hình thể cá biệt ở giữa. Ngài đứng yên còn ta chuyển động, ngài hằng tuôn rải ra bên ngoài còn ta túa vào trong, để vì vậy duy trì sự thăng bằng hay quân bình của những năng lực khác nhau, có liên quan vào tiến trình mà chúng ta đều có trách nhiệm trong vùng này.
Hoạt động của giới thiên thần do đó xem ra luôn được quân bình, ngay từ trong lòng địa cầu cho đến tít trên cao.

Thiên Thần Vùng
Rặng núi Manaia, Vịnh McLeod, Whangarei Heads

Ngự trên khắp rặng núi ở Whangarei Heads là một đại thiên thần, ở tít cao bên trên trung tâm của rặng, lửng lơ vào khoảng phân nửa chiều cao của ngọn Manaia. Thân hình ở giữa vô cùng to lớn, ít nhất bằng ngọn núi bên trái, tức khoảng hơn 500 m.
Phần dưới hào quang từ ‘vai’ xuống chảy ra ngoài, trùm lấy khắp vùng núi mà thiên thần chịu trách nhiệm về mặt kích thích sự tiến hóa, thế nên rất rộng. Phần lớn hào quang màu xanh lục, luôn luôn có dợn sóng, mỗi làn sóng lấp lánh ngũ sắc trong đó có màu xanh da trời và màu đỏ đậm rực rỡ. Uy lực được tuôn khắp vùng vịnh McLeod và lan ra cả bên ngoài vùng.
Phần trên của hào quang thiên thần tuyệt diệu này có màu tím, xuống tới luân xa ‘cổ họng’, luân xa ‘tim’ và tùng thái dương, chiếu sáng hai bên thân với màu mà tôi khó lòng tả, chỉ có thể nói nó như mầu vàng của đất, rực sáng từ trong ra và bên ngoài màu ấy là màu xanh lục có xen mầu tím lan đến tận bìa. Bên trên phần này, từ ‘vai’ hướng lên cao là phần ‘đầu’, nhưng gần như không sao tả rõ được. Những màu tím, xanh lục và màu vàng rực rỡ túa từ ‘vai’, lan rộng ra xa ít nhất là 70 m. Tiếp trên đó có những trung tâm lực nhấp nháy, phần lớn cùng màu. Ta chỉ có thể nhìn thoáng thấy gương mặt đại thiên thần với ‘cằm’ khá nhọn, vầng sáng quanh ‘đầu’ chói sáng màu tím, màu vàng đất, và nhiều màu khác bao quanh và nằm trên đó cho ra cảnh sắc thật huy hoàng. Những chớp sáng làm ta thấy như có một vương miện ở bên trên ‘đầu’, sinh ra cảm tưởng uy nghi vượt ngoài sức mô tả.
Một trung tâm lực hướng ngay về phía chúng tôi từ bên trong phần của ‘đầu’ vị đại thiên thần, vốn đứng sừng sững cao tít trên chúng tôi. Quanh ‘đầu’ và ‘vai’ ngài có một số thiên tiên bay lượn trong ngài, cái sau bao trùm từ núi Manaia đến bỉa bên kia của rặng núi, cho ta cảm tưởng là năng lực hùng vĩ, kích động đang tuôn chảy qua thiên thần xuống cảnh vật xanh tươi và đất đai bên dưới. Bằng cách ấy ngài thúc giục sự tiến hóa trong vùng, và thêm vào đó, từ một chỗ bên trong ngay dưới quả ‘tim’ là tụ điểm cho lực kích động tuôn tràn xuống từ cõi mà tôi nghĩ là Niết Bàn, hòa với lực từ hào quang  phóng ra, làm tăng cường sức mạnh của nó trong việc kích thích sự tiến hóa.
Đôi ‘mắt’ là trung tâm phóng tỏa, làm tôi ngất ngây cùng tột khỉ ngài ban phép lành cho việc làm của chúng tôi. Trọn vùng thật sinh động với các thiên thần nhỏ hơn và thiên tiên, ai cũng linh hoạt hết sức rộn rịp.

Thiên Thần Núi

Về sau khi đến thăm núi Manaia, tôi thấy có ít nhất khoảng 170 m phía trên đỉnh núi đá, là phần hình thể đậm đặc của một thiên thần với bề ngoài thật rực rỡ, thân giữa cao khoảng ít nhất là 7 m. Bên trên ‘đầu’ là một vùng ánh sáng màu xanh dương và tím, bung lên không từ ‘vai’ và đỉnh ‘đầu’, trong khi ngoại biên là những đường lực màu hồng đào túa lên cao, ít ra bằng nửa chiều cao của ngài. Từ ‘vai’ theo ‘cánh tay’ rồi xuôi xuống, đi vào ngọn núi và không khí chung quanh là lực màu xanh lục, tím với xanh dương sát người hơn, chiếu lan ra xa xen với những tia lửa trắng từ cõi Niết Bàn cũng đi xuống cùng lối. Ở mọi bên ra đến khoảng 1,5 km tới chỗ này, có lực kích thích rất đỗi hùng mạnh với sức sống trong đá, cây cỏ và không khí, cho ra cảm giác gây gây trong người khi lực tràn qua tôi đi xuống đất bên dưới. Năng lực màu tím lấp lánh, lóe sáng túa ra từ khắp người thiên thần đi vào mọi vật bên dưới. Lực đi xuống và đi ra ngoài ấy, lan rộng ra đến chừng 30 m bên ngoài mực nước của vịnh Whangarei. Phần dưới và ngoại biên của hào quang có màu xanh lục sáng, tất cả năng lực đều tự phát ra ánh sáng như thể được chiếu rọi từ bên trong ra.
Luân xa ‘tim’ màu tím và trắng có lấm tấm xanh lục nhạt, xếp thành vòng và chiếu ra bên ngoài vị thiên thần. Làn năng lực này cũng lan đến chúng tôi ở cõi trí trừu tượng và cụ thể, nhưng thân của vị đại thiên thần và phần việc của nó xem ra linh hoạt nhất ở cõi trí cụ thể, nếu bàn về mặt trái đất. Cõi tình cảm và ether chịu ảnh hưởng mạnh mẽ, giống như những trung tâm lửa bé tí mầu trắng tuôn rải không ngừng qua khắp hào quang, thấy rõ nhất là ở những cảnh vừa nói.
Sinh lực bên trong các vật thể đáp ứng theo một cách lạ lùng, tựa như các ống trụ nhỏ hướng lên trên để nhận và đáp ứng lại với lực tuôn xuống. Việc ấy làm cho phần ether của toàn vùng cực kỳ linh hoạt, nhiều lần hơn mức thường thấy, làm cho có một sức kích thích nguyên tử và phân tử, nơi nào có sự sống khoác lấy hình hài vật chất, khiến sự tiến hóa nhờ vậy được thúc giục mau lẹ hơn.
Đỉnh núi bên phải của ngọn Manaia giống như ngọn hải đăng phát ra hiện tượng sau thật mạnh mẽ. Tít trên cao vượt xa phần vừa tả của đại thiên thần, nằm trong phần trên cùng của hào quang, là một vầng sáng sinh ra do lực túa lên cao đậm lại. Chúng từ đỉnh ‘đầu’ đi lên, nơi lấp lánh như ngọc, sống động, gồm những tụ điểm lóe sáng mầu tím, hồng nhạt, đỏ tươi và vàng chói, còn phần trên của vầng sáng dâng lên những lực tuyền một mầu trắng. Thêm vào đó ta còn có cảm giác như có một áo choàng trắng sáng rực rỡ, gồm những đường lực bao quanh bìa ngoài của hào quang. Nó hết sức linh hoạt, rung động luôn, năng lực đi xuyên qua đó, cả từ bên ngoài và bên trong, làm trọn hình dạng của thiên thần tuyệt vời này có vẻ duyên dáng và mỹ lệ lạ kỳ.
Cặp ‘mắt’ to như dáng người, đường kính khoảng hơn 15 cm, và thấy rõ chúng là phương tiện hay dụng cụ cho Chân nhân của đại thiên thần, quan sát mọi chuyện xảy ra, luôn cả việc chúng tôi đang mô tả ngài. Luân xa giữa ‘trán’ cũng phát ra tương tự một đường lực hùng mạnh màu trắng và vàng, ra xa khoảng vài thước trong không, hay đúng hơn là vào cõi thượng trí. Cơ quan ấy có hai nhiệm vụ là nhận xét và phóng chiếu năng lực nhằm khơi động tâm thức.
Về mặt vật chất ngọn núi có vị trí giới hạn, và địa hình của rặng khiến cho tầm ảnh hưởng của lực thúc đẩy bị hẹp, nhưng giới hạn ấy và sự cô lập của núi không còn thấy nơi cõi cao. Thành ra vị đại thiên thần có khoảng không gian rất rộng để tác động, nhất là về mặt tâm thức và tôi có thể nói luôn cả về mặt thời gian.
Mặc dù chuyên tâm hết mức vào trách nhiệm của mình là thúc đẩy sự tiến hóa trong vùng, vị đại thiên thần này cũng đang hợp lực cùng đấng chủ trì đường tiến hóa của thiên thần trên trái đất. Thêm vào đó tôi thấy có sự hợp tác trong hoạt động thiên thần ở mọi cõi, được duy trì liên tục trong suốt hàng ngũ thiên thần, từ những thiên tiên vừa cá nhân hóa cho đến các vị đại thiên thần của địa cầu, và tôi cũng tin nó gồm luôn những đấng cao cả trên các hành tinh ấy.
Tâm thức của vị đại thiên thần như vậy hướng về sinh vật và các cõi trên và dưới, kiểm soát mọi sinh hoạt bên ngoài.

Thiên Thần của Vịnh
Núi Bream Head, Whangarei

Vị thiên thần này chăm lo không những sự sống trong đất và nước, mà chịu trách nhiệm cả việc tàu bè di chuyển hàng hóa và hành khách an toàn vào vịnh Whangarei. Không giống như các thiên thần ta đã quan sát, ngài hướng tâm thức mình ra xa khơi và cửa vào vịnh.
Như để nói chuyện, thiên thần giải thích: ‘Khác với những huynh đệ của tôi, tôi lưu tâm đến thiên tiên trong không và tất cả những gì quanh tôi, tuy đặc biệt  là ngang qua cửa ra vào vịnh. Tôi cũng phụ vào sự tiến hóa của sức sống trong kim thạch và thảo mộc trong vùng núi này, lan xa một khoảng rộng bên dưới’. Bây giờ tôi thấy một cái tạm gọi cái cầu rất dài, là năng lực thúc đẩy của thiên thần. Tiếp tục quan sát tôi thấy lực túa xuống lan rộng từ ‘vai’ thiên thần, đi sâu xuống dưới ngọn núi khoảng 130 m, có công dụng như ngài đã nói.
Trọn thân đến cổ và ‘vai’ của ngài cũng được bao quanh bằng lực đâm ngang ra không khí chung quanh tới một khoảng 30 m hay hơn nữa. Nó màu tím có lửa trắng xen vào, đổi thành màu lục nửa chừng bên trên, rồi thành mầu vàng chỗ ‘cổ họng’ và ‘tim’. Ở ‘vai’ lực tỏa rộng túa cao lên trên ‘đầu’ thiên thần, có màu hồng, vàng mơ và vàng đất chói sáng, với cùng màu tím khoảng 6 hay 7 m chung quanh ‘đầu’. Lẫn vào bên trong và hòa với những màu này không theo một mẫu mực nào là màu xanh xám, không giống như bất cứ hào quang thiên thần nào mà tôi đã gặp. Lực tuôn lên trên, tỏa rộng ra không theo đường thẳng. Tôi lạ lùng thấy có lớp bên ngoài nở rộng ra, khi chúng vươn lên theo đường cong như đóa hoa, trong khi lực ở ‘đầu’ vẫn đi thẳng, loe rộng.
Bây giờ tôi thấy lực Kundalini cũng tuôn chảy xuyên trong không, từ mặt đất lên phần dưới của hào quang của ngài, vọt thẳng trong thân hình rồi thoát ra đỉnh ‘đầu’ theo dạng tia lửa bừng bừng vọt lên cao. Nó là một phần của năng lực mà thiên thần dùng để chăm lo cho mặt đất. Tôi đoán là nói cho đúng thì ngài có liên hệ với Kundalini của mặt trời và địa cầu, làm việc theo một đường lối bí ẩn sâu xa, huyền nhiệm, liên quan đến tác động của Kundalini trong thiên nhiên. Nơi tôi nghiên cứu trải rộng chừng 3 - 4 km quanh Bream Head, là một vùng có hoạt động đáng kể của Kundalini, có cái giống như núi lửa Kundalini đâm ra từ tâm trái đất chỗ tàng trữ ngọn lửa vĩ đại này.
Tôi nhận được lời chào mừng của thiên thần tuyệt vời này, ngài nói với tôi như với một huynh đệ, ‘Tôi thấy ngọn lửa thiêng cũng nằm và linh hoạt trong bạn. Xin chào bạn, người anh em Kundalini. Thiên thần có nhiều cấp bậc và một trong những đẳng cấp mà tôi có vinh hạnh thuộc về có thể gọi là Thiên Thần Kundalini, được sinh ra do Đấng tạo nên muôn vật’.

Thiên Thần Núi
Núi Ngauruhoe và vùng chung quanh, New Zealand

Vị đại thiên thần cai trị vùng hiện ra khoảng vài trăm thước bên trên đỉnh núi, lưu ý tôi đến cái ‘thang’ hay những bước liên lạc từ đại thiên thần của núi đến một đại thiên thần cao hơn nữa, chủ trì toàn vùng Tongariro. Nó gồm núi Ruapehu và những ngọn núi khác, kéo dài từ lâu đài Tongariro ra chung quanh một khoảng chừng 45 km. Đấng cao cả này lại hòa hợp chặt chẽ với vị Đại Thiên Thần Địa Cầu, và có hình dạng hết sức kỳ vĩ.
Phần dưới của hào quang vị vừa nói chiếu sáng màu xanh lá cỏ và xanh da trời đậm. Từ xương sống tủa lên dòng Kundalini bắt nguồn từ trong lòng trái đất, đó thực là một lực hùng mạnh. Quan sát kỹ, dòng lực gồm ba đường lửa chảy lên theo hình trụ, vượt quá hào quang trên cao và vùng tỏa rộng phía trên, lan ra những khoảng bên ngoài tầm nhìn của tôi, đến nơi mà tôi cho là của vì Hành Tinh Thượng Đế. Cái ‘thang’ này kéo dài mãi đến tận vì Thái Dương Thượng Đế, và tôi chỉ cảm được như đó là một vùng trời bao la bát ngát, chói hực màu vàng uy quyền và ánh sáng.
Tôi chỉ có thể tả vị đại thiên thần mà núi Ngaurapehu là tụ điểm ở cõi vật chất, là cái ‘ngai’, trung tâm của quyền lực với trách nhiệm vượt xa New Zealand, và ra khỏi khả năng quan sát của tôi. Từ ‘vai’ trở ra, tôi lần lần thấy những đường lực trải rộng thẳng ra ngoài, có cái đi xiên từ phần trên của thân, còn luân xa ‘tim’ tuyệt đẹp như mặt trời, là tâm quay tít phóng ra uy lực màu tím, xanh lục, hồng, đò và vàng óng; chúng trộn lẫn nhau nên sinh ra thêm nhiều sắc khác.
Tôi không làm gì được khác hơn là nghiêng mình kính cẩn trước đấng cao cả này, tỏ lòng biết ơn cái vinh hạnh được cảm biết về ngài khi đi thăm núi lửa, nơi mà dường như thiên thần trụ vào, hay trung tâm uy lực của ngài.
Về trái núi, rõ ràng là nó đang chịu ảnh hưởng của sự thúc đẩy tiến hóa vào sức sống bên trong, và cả hình thể liên kết với sức sống, khiến giảm bớt sức trì trệ, làm nó đáp ứng thêm hơn. Tôi cũng thấy cả đoàn tinh linh lửa thuộc đủ mọi kích thước và trình độ tiến hóa, hợp lực trong sinh hoạt của đất đá nơi này. Có nghĩa trọn phần bên trong núi lửa, nhất là chỗ tôi đang quan sát ở sườn dưới thấp và mặt đất, đang có tinh linh lửa làm việc thật sôi động cùng với vị thiên thần quản trị chúng, nhằm góp vào việc thúc đẩy, giục giã sự tiến hóa cho mau lẹ hơn. Tôi tin rằng việc thúc giục này là mục đích của sự hiện hữu của vũ trụ, mọi sinh vật lớn nhỏ và những phần liên hệ.
Tôi nghĩ núi lửa khác với những núi khác. ở điểm lửa sâu trong lòng đất được giới thiên thần tích cực sử dụng ở núi, theo cách thức vô tư và sức thúc đẩy có khắp nơi, hướng nó đến việc mở rộng sự tiến hóa. Bây giờ tôi cảm nhận tâm thức của hàng ngũ thiên thần, từ tinh linh đến các vị đại thiên thần tràn niềm hân hoan đầy tiếng cười. Người tập yoga có thể lấy đó làm lý tưởng cho mình. Làm vậy thật là khó, hay bất khả, nhất là với ai gặp karma đau buồn hoặc xác thân hoặc trí não.
Thấy như những thiên thần lửa này đang ‘đào’ sâu, và làm lỏng dần cơ cấu của lớp vỏ’ ether và đất đá của miệng núi lửa, đi sâu qua đó vài thước vào lòng núi. Sức sống trong nguyên tử và phân tử nhấp nháy sáng thêm lên, khi việc chăm lo huyền bí này của thiên thần tiếp tục. Diễn trình xảy ở nơi rất sâu trong miệng núi lửa, cách đáy núi một khoảng xa, chỗ sức nóng địa cầu đang bừng bừng (không khác nào lò rèn của ta) và tiếp tục kéo sâu vào lòng trái đất.
Quan sát thêm vị đại thiên thần của núi Ngauruhoe, tôi thấy bên chỗ bên ‘hông’ trái của ngài có màu chính là xanh lục gần ‘thắt lưng’, rồi tiếp đó là xanh da trời rực rỡ cho trọn vùng hông, kéo dài xuống tận ‘đầu gối’. Màu xanh trải ra một khoảng ít nhất 100 m bên trái thiên thần theo mọi hướng, nhất là từ ‘vai’ đền bên trên ‘đầu’, chỗ nó kéo dài hơn 70 m và hòa với ánh sáng trắng rực rỡ phát ra từ khắp hào quang.
Bên trái hào quang ở dưới màu xanh hực sáng màu đỏ hồng, loe rộng như cái váy quanh phần dưới hào quang  và lan ra ít nhất hơn 100 m. Vầng sáng trắng cũng đi sâu xuống dưới ‘chân’ mãi vào bên trong miệng núi lửa. Phần trên bên phải của hào quang  thiên thần cũng có màu xanh dương ở ‘vai’ và ‘cổ’, với màu hồng rực rỡ bên dưới nơi ấy.
Luân xa ‘cổ họng’ rất sáng, màu chính là trắng và vàng, còn dọc theo xương sống một dòng lực bừng bừng chảy theo kiểu Kundalini lên qua ‘đầu’, vọt xa thẳm trên không. Ở giữa ‘đầu’ chỗ của đôi ‘mắt’ chói lọi một lực màu trắng và xanh dương, có những màu khác trộn vào bên trong cái xoáy khổng lồ của luân xa giữa hai chân mày.
Tuy phần tâm thức cao xem như tĩnh lặng trầm ngâm, cái trí thấy có ý thức tràn lan khắp vùng, và tôi cho là vươn xa đến tận Rangitoto (vịnh Auckland) và núi Bream Heads (Whangarei Harbor Heads), và thấy có lửa Kundalini với lửa hỏa diệm sơn trong cả hai nơi. Hệ thống liên lạc tích cực hoạt động và khoảng thông thương bao trùm cả địa cầu. Thực vậy, trí tôi bỗng nẩy ra ý, ‘Đây là vị đại thiên thần biểu hiện và là hiện thân cho lực Kundalini của trái đất, còn nhiều vị khác cùng chia sẻ công việc này tại New Zealand’.

Thiên Thần Thảo Mộc
Cornwall Park, Auckland

Vị cao cả này ‘đóng đô’ trên đỉnh núi One Tree Hill bên trong công viên Cornwall, Epsom, Auckland. Màu nổi bật nhất trong hào quang là vàng chói, tỏa ra từ ‘đầu’ và túa lên trên ít nhất là 30 m. Phần hào quang này có thể tả là có hình quặng với đáy mở ra ở vùng ‘trán’, rồi sau đó nở lớn rực rỡ tới khoảng ít nhất 33 m ở phần trên của hào quang bên trong.
Túa ra từ thân là lực màu xanh lục rực rỡ. Bên trong mầu này ta có thể thấy những luân xa chói lọi ở ‘đầu’, ‘cổ họng’, ‘tim’ và cuối xương sống tương ứng với người. Chúng quay tít thật mau và có kích thước như sau:
– Luân xa đỉnh ‘đầu’: 2 m, vàng chói
– Luân xa giữa ‘mắt’: 1 m, vàng đậm hơn có lóe xanh da trời và trắng
– Luân xa ‘cổ họng’: 0,70 m, trung tâm mầu vàng, ngoài ra gần như toàn là xanh dương.
– Luân xa ‘tim’: gần như không thể đo kích thước, vàng chói, xanh lục sáng, xanh dương có tia sáng trắng lóe bên trong.
– Cuối xương sống: tiếp xúc trực tiếp với trung tâm địa cầu, chỗ Kundalini chảy lên và ra ngoài đỉnh ‘đầu’, với mầu đỏ hùng mạnh của uy lực chói sáng ở giữa và vươn lên cao vào không trung như ngọn lửa, tiềm tàng sức mạnh với những lóe sáng mầu trắng chói lọi không ngừng.
Trọn những phần này của hào quang chiếu rạng ở cõi thượng và hạ trí. Tôi cũng lại thấy những chớp sáng và dải mầu trắng, bừng bừng sáng túa ra bên ngoài bìa của hào quang rất rộng, tới mức tôi không thể ước lượng từ chỗ mình đứng, nhưng ít nhất ra bên ngoài ‘thân’ khoảng 7 m, còn màu sáng nhất chiếu rộng ra xa nhiều hơn nữa.
Thêm vào đó, tôi cảm nhận cái mà tôi chỉ có thể tả là lực hào quang của thiên thần, túa từ thân ra và có thể dãn rộng, chạm vào và kích thích sức sống trong khắp công viên. Hiện tượng này thấy rất rõ chỗ chúng tôi đang ngồi, và linh hoạt ở khắp đồi, kể luôn cả trên ngọn.
Có đông đầy thiên thần cấp nhỏ hơn và tinh linh bên trong vòng hào quang. Chúng rất náo động, tinh linh xẹt tới lui không ngừng và xem ra lại tăng cường mạnh thêm, khi trung tâm uy lực hào quang tụ vào vùng của chúng.
Vị đại thiên thần này đứng ‘đầu’ một nhóm rất lớn những thiên thần cây cỏ và tinh linh, đặc biệt có luôn cả những thiên thần cây lớn, mỗi thiên thần cây trong vùng xem ra đều nằm trong vòng ảnh hưởng của ngài. Tất cả thành viên của cấp thiên thần từ tinh linh trở lên, đều dưới sự chăm sóc của đấng cao cả ấy. Các tinh linh và thiên thần cây nhỏ không mảy may biết vậy, nhưng tất cả thiên thần ở cõi tình cảm và hạ trí đều ý thức dù có chút máy móc và đáp ứng lại.
Mối lưu tâm và sinh hoạt chính của đại thiên thần công viên Cornwall, dĩ nhiên là bên trong phạm vi của công viên mà ngài chủ trì, và ngài chú tâm đặc biệt tới phần trách nhiệm đi đôi với địa vị như thế, nhưng vùng ảnh hưởng của ngài không giới hạn chỉ vào One Tree Hill hay cả công viên Cornwall. Hào quang và thể của ngài rực rỡ tới mức nó kích thích liên tục, thúc đẩy sự tiến hóa, phát triển và sức cảm thụ ngày càng tăng, của sức sống duy nhất đang nẩy nở bên trong đất đá của địa cầu,  và thảo mộc từ cỏ dại bé nhỏ đến cây đại mộc, gồm cả loài thông, tùng v.v. và cây to khác.
Tôi có cảm tưởng như đây là một vương quốc mà vị đại thiên thần trị vì. Trong lúc ngắm nhìn, tôi nhận ra có sự trao đổi tư tưởng đang xẩy ra, như thể ngài chỉ dạy tôi về trọn những phần việc huyền bí mà thành viên của giới thiên thần đang thực hiện. Tôi thấy công việc ấy bao gồm nguyên lý ‘tăng trưởng theo thiên cơ’, cái chi phối mọi sức sống trong cây cỏ, và cả những sức sống khác.
Ngài dạy rằng phận sự của các thiên thần vùng, là thúc giục sự tiến hóa của mọi sức sống trong vùng, gồm chất liệu sub-mineral, kim thạch, thảo mộc từ hoa cỏ bé tí đến cổ thụ như hồng mộc - redwoods. Bên trong mọi vật này đều có Sự Sống Duy Nhất ngụ. Mỗi hạt nguyên tử, mỗi phân tử, tế bào đều là thể hiện của một sự sống, tức chúng được cấu tạo bằng những vật chất đầy sức sống.
Giống như con người có ngã thức phát triển ở nhiều cấp độ, mỗi thành viên của những loài dưới người đang qua diễn trình song đôi, gồm sự nẩy nở tự nhiên và phát triển được thúc giục. Nơi loài người và thiên thần ở mức tương đương, việc ấy được các đạo sư - adept và đại thiên thần thực hiện; còn với sự sống ngụ bên trong mỗi hạt nguyên tử nơi các loài thấp hơn người, luôn luôn có một lực thúc đẩy tác động lên chúng.
Nói riêng về tinh linh không khí và lửa, công việc trên được hai hạng thực hiện, một là các sinh vật chưa có ngã thức riêng biệt, thí dụ như tiên nữ, thi hành một cách vô thức theo bản năng, và một là các vị đã có ngã thức.
Như vậy, vũ trụ đơn giản là một trường học khổng lồ, một cơ cấu thúc đẩy sự tiến hóa, và chứng cớ cho sự thăng tiến trong diễn trình không phải chỉ gồm hiểu biết về sự hiện hữu của nó, mà quan trọng hơn nữa là việc có cơ hội tham gia vào Thiên Cơ to rộng.
Nếu ý trên được chấp thuận, thì một mẫu mực có thể dùng để đo chặng phát triển của cá nhân, là mức độ tham gia ngày càng hữu hiệu, thông minh, hùng mạnh trong việc trợ giúp cái phận sự sâu kín nhất trong vật của thiên nhiên. Nó không gì khác hơn là sự hằng khai mở, hay nói giản dị là sự tăng trưởng. Cái động lực để nẩy nở được truyền vào sức sống nội tại, ‘sống’ bên trong  mọi sinh linh. Bao niên kỷ trôi qua nhưng diễn trình này không những tiếp tục, mà lại có sinh hoạt với năng lực tăng bội phần.

Thiên Thần Chữa Bệnh

Thêm vào các hoạt động này, và những phần việc khác của hàng thiên thần cõi thượng trí và cao hơn nữa, hình như đại thiên thần công viên Cornwall đảm nhiệm luôn việc trợ giúp bệnh viện Green Lane, cả bệnh nhân và người đến thăm họ. Tôi cũng quan sát thấy rằng trí não của các bác sĩ nào khá mẫn cảm đôi khi nhận được hướng dẫn, dưới hình thức có khuynh hướng đáp ứng với ý tưởng có tính bản năng (nghĩa là không hẳn là khoa học), nhất là khi tình trạng bệnh nhân có phần bí ẩn. Trợ giúp này cũng xảy đến với y tá, khi họ không ý thức nhưng thình linh nhận lóe sáng trực giác, gợi ý một cách trị liệu và chăm sóc đặc biệt.
Nhưng liên quan đến việc giải phẫu, phục hồi và chữa lành thương tật là một cấp thiên thần khác hẳn. Những vị này gần như không có tương giao với các thiên thần chăm lo cho thiên nhiên. Phần việc của họ là đưa các năng lực cao, nhất là tình cảm và trí cụ thể, trừu tượng vào vết thương, cơ quan, não bộ và thần kinh để kết hợp hay cả việc tạo tác, rồi thì sinh lực cõi ether tự động theo sau. Tôi để ý tới một thiên thần chữa bệnh cao cả ở một khu trong bệnh viện, ngài thực hiện phần việc của mình theo cách trực tiếp và thân cận tới hết mức karma cho phép, bởi luật này dĩ nhiên đóng vai trò rất ý nghĩa, quyết định phần nào tiến trình lành bệnh và tác dụng từ đó sinh ra.
Một đại thiên thần thật cao quí xinh đẹp cùng với đại thiên thần công viên Cornwall, trông coi hoạt động của các thiên thần và tinh linh ở bệnh viện, cho phép có sự trợ lực khi nào có thể làm vậy và nên làm. Một phần của sự trợ giúp này xảy ra dưới dạng những đường tư tưởng (thí dụ tư tưởng tạo tế bào), và lực tinh thần cùng cõi thượng trí tràn vào thân người bệnh, rơi cả lên người họ từ trên cao xuống, đôi khi là những dải thật nhỏ đầy năng lực nén chặt.
Mỗi bệnh nhân, mỗi ai đau đớn đều nhận sự chăm lo trên qua nhiều cách thức khác nhau. Ai bị tai nạn hay gặp chuyện bất ngờ khác được thiên thần đến lo lắng ngay, và những trợ giúp nào mà tinh linh và thiên thần có thể làm mà thuận với karma đều được thực hiện. Có sự liên lạc và hợp lực chặt chẽ không ngừng, giữa hai đại thiên thần chủ trì công viên Cornwall và bệnh viện Green Lane. Trên hai ngài mà cũng hợp nhất với hai ngài lại có một đấng cao cả hơn nữa quản trị, có vẻ như ngài là đại diện cho giới thiên thần hoặc của North Island hoặc của New Zealand, tôi cho là North Island đúng hơn.
Cộng với những quan sát này là có một đại thiên thần liên hệ với biển Tasman và nhiều thiên thần cao cả khác bên trên cõi trí dự vào cuộc tiến hóa và sự sống loài người ở New Zealand. Cố nhiên việc tương tự cũng áp dụng cho biển phía đông, vì ở trên những cõi cao sự phân biệt giữa các loài và quốc gia không còn ý nghĩa mấy, mọi sự sống đều được biết là Một, bất khả chia lìa.

Thiên Thần Vàng Ánh
Núi Tongariro

Tôi cảm biết sự hiện diện gần bên của một thiên thần vàng ánh rất đáng nói, đang bay lượn gần người bạn và tôi. Ở cõi vô sắc tướng, ngài tuôn ra một lực giống như ánh sáng mặt trời ở thể lỏng, và cũng tụ một tia đặc biệt vào luân xa ở giữa trán chúng tôi, làm nó bừng lên như cháy. Hình dạng thiên thần giống như vàng lỏng, có những tia sinh lực và ánh sáng tuôn ra bên cạnh và đằng sau thân. Trọn hào quang thiên thần do những lưỡi, hay chùm sáng nhọn đầu của lực tủa ra ngoài hết sức thanh, thuộc Sức Sống Duy Nhất mầu vàng chói rực. Những tia này chiếu lên trên quanh ‘đầu’ xuống đến ‘chân’, tụ lại chặt chẽ đằng sau chỗ ‘tim’ và ‘tùng thái dương’, ở đó màu đậm lại thành sắc cam vàng óng. ‘Tóc’ là những lực tỏa từ ‘đầu’, gồm những lưỡi ánh sáng nhỏ hơn mầu vàng rực rỡ. ‘Mắt’ nằm dưới đôi ‘mày’ rộng và thanh tú, giống như các hồ ánh sáng mặt trời và sự sống, có trung tâm ý chí đằng sau chúng đầy uy lực với sức chú tâm lạ thường.
Dường như thiên thần không cảm biết và đáp ứng với bốn thể của phàm nhân bên dưới tâm thức mình, trọn chú ý của ngài tụ vào cõi và thể Bồ đề, nơi mà ngài cư ngụ.
Đấng cao cả này bây giờ ngỏ lời rằng ở cõi đó, mục đích duy nhất cho sự hiện hữu của thiên thần và con người, dường như là để đạt tới sự biểu lộ tràn đầy hơn, tự do hơn, bớt tính giới hạn riêng tư về Sự Sống Duy Nhất. Ngài ngụ ý rằng sự việc có ý nghĩa hơn là chỉ biến mình thành con kinh cho sức sống thiêng liêng, vì các luân xa và nơi tiếp nhận lực tuôn xuống hóa dễ thực hiện hơn và mở rộng hơn, được hỗ trợ do ý thức sự đồng nhất của Chân nhân với Sự Sống Duy Nhất, thành ra mỗi cá nhân có thể trở thành sự biểu lộ trọn vẹn của Sự Sống ấy. Thành đạt này tùy thuộc vào tình trạng của thể bồ đề của cá nhân liên hệ. Với bậc tiến hóa cao, các vị có thể Bồ đề phát triển và nở rộng, và đó là công việc và lý tưởng cho người đã hiểu biết muốn cộng tác với Thiên Đoàn.
Tâm thức con người phải càng lúc càng ý thức hơn về Sự Sống duy nhất trong Thái Dương Thượng Đế, và phải biết do kinh nghiệm rằng thể bồ đề và tâm thức bồ đề là biểu hiện của sức sống ấy, và cùng bản chất với nó. Sự Sống Duy Nhất hiện ra như biển vô bờ, vàng óng, sáng rực, hoàn toàn vô tư và phổ quát. Nó là thể bồ đề của Thái Dương Thượng Đế, có vẻ vô giới hạn vì con người không đủ sức thấy giới hạn (nếu có). Xem ra thể bồ đề của những đấng hết sức cao cả phải hòa tan vào, và thành là một phần, của thể Đấng cao hơn nữa, cuối cùng tụ lại thành thể của Vũ Trụ Thượng Đế, Đấng sinh ra muôn loài. Mục đích duy nhất trong việc sử dụng thể bồ đề của bậc đạo gia là làm gia tăng tâm bồ đề, khiến nó tràn lan và hóa sống động hơn trong thể bồ đề của mình, để nhận thức về Bồ Đề tâm của Thái Dương Thượng Đế và sự hòa hợp với nó hóa sâu đậm hơn. Trọn tâm thức và thể bồ đề của Thiên Đoàn, tan lẫn vào thể bồ đề của Đấng Chủ Tể Địa Cầu cùng những đấng cao cả trong đó, nên chuyện rất đúng thực là ‘Tất cả là một và một là tất cả’.
Ở mức độ ấy cảm tưởng chia rẽ mất biệt, và hào quang không thấy như có lằn giới hạn. Ai ai cũng giống như chìm trong bể sáng chói, như giọt mưa sau khi rớt xuống hồ tan vào nước trong đó, hay bong bóng từ trong chất lỏng trồi lên mặt rồi tan vào không khí. Tuy vậy chuyện lạ lùng là ngã thức vẫn còn tồn tại, nó không cho thấy sở hữu một thể riêng, đúng hơn đó là việc tự do sử dụng bất cứ vùng nào của cái ‘biển sáng chói’ mà không có ý sở hữu vùng đó, hay cả ý thức đang sống bên trong hào quang. Tác động của thiên thần lên hào quang là thêm vào đó sắc vàng óng, làm có tia xuất hiện quanh và bên trên ‘đầu’.
Những chữ và ý niệm như vũ trụ, Thượng Đế và Cái Ngã Duy Nhất, gần như mất đi ý nghĩa của chúng nơi cảnh giới này, chỗ mà sự phân chia không rõ nữa. Tâm thức ở đây nhấn mạnh tới tính duy nhất, tính ‘Là Một’, nguyên tính, cái tổng thể mà tâm thức tan biến vào đến mức nét cá biệt nào cũng bị xem là không thực và không thiết yếu.
Với tâm thức lúc tỉnh nơi cõi trần, ý thức về tính ‘Là Một - Oneness’ cho ra kết quả là sự hòa đồng trọn vẹn, hòa hợp trôi chảy từ trong ra ngòai. Con người vẫn gặp phải vấn đề về mặt trí não và do karma, do cuộc đời và giới hạn của sự phát triển của người ấy, nhưng họ không bị căng thẳng. Hơn nữa, áp lực do ý thức về thời gian được giảm tới mức tối đa, tương tự như chuyến đi vừa xe vừa tàu mất nhiều ngày, nay chỉ mất vài giờ bằng phi cơ và lại thoải mái hơn một cách đáng kể. Thân xác như mất trọng lượng, làm như nổi trong không.
Chính trái đất lại tiếp nhận những đường sinh lực lỏng vàng ánh, chảy cuồn cuộn bên trên và bên dưới mặt đất, làm thông hơi địa cầu, hay đúng hơn là khiến sức sống bồ đề tràn ngập nó. Những đường lực - chữ không đúng lắm vì ở những cảnh này không có sự căng thẳng - tạo thành mạng lưới phức tạp, cho ta cảm tưởng có một sức sống cực kỳ linh hoạt, đầy ý thức, rộn ràng mà có tiết điệu và liên tục hoạt động, giống như bầy kiến trong tổ. Không khí, mọi cơ cấu và vật gì tăng trưởng cũng tràn ngập sức sống như vậy. Thí dụ cơ cấu bên trong cỏ, cây đại mộc, thú vật, xác thân con người, làm như mỗi cái đều có mạng lưới Sức Sống riêng cho mình, nhưng nói riêng về sự sống thì nó là một trong tất cả, tuy nó uốn mình theo hình dạng của thể vật chất.
Xác thân của con người rung động không ngừng với sức sống này, nó vô cùng sống động, rộn rã và tích cực có ý thức bên trong thể, gần giống như ong trong tổ. Nó cung cấp liên tục sự kích thích thật tinh vi, ‘thức ăn’ tối cần và chất liệu hòa hợp nhằm tạo dựng cho mỗi tế bào và cơ quan. Nhìn ở cõi cao chất này thành vô hình, chỉ còn lại mạng lưới của thể với vô số các sợi và vòng nối vô cùng tinh tế thanh mảnh. Bên trong mạng lưới lúc nào cũng thấy có những cơn nổ bùng nhỏ, và cũng có trong khoảng trống giữa các sợi, khi sinh lực đi tới và được tuôn vào cơ thể. Lúc bệnh chắc cơ cấu và hoạt động điều hòa này sẽ bị rối loạn vài nơi, và lành bệnh là việc tái lập hệ thống.

Thiên Thần Biển
Bãi biển Eastern, gần Auckland.

Khi làm công việc nghiên cứu này, tôi có đặc ân là dùng được hai nhãn thức. Một là ý thức được vị đại thiên thần mang nhiều tính nữ, liên quan với North Island của New Zealand nói chung, nhất là về mặt sông nước. Phần nhãn thức thứ hai bao gồm vị nữ thủy thần ít ra trong vùng này của Thái bình dương, và luôn cả những mức độ khác liên hệ với chính New Zealand, nhất là North Island và hồ trên đảo.
Khi ấy tâm thức tôi nối với hồ Taupo, ở đó có một nữ thiên thần cao cả khác hiện diện, lửng lơ bên trên và phần nào đi sâu xuống dưới mặt nước. Tôi nhận ra có một đấng nữ thiên thần hết sức cao cả của North Island, ngài cũng là hiện thân cho cái nguyên lý mà thủy thần tại hồ là đại diện và biểu lộ. 
Mặc dù ở cõi cao hình ảnh của ngài hiển hiện cực kỳ tuyệt vời, trọn hiện tượng lại thực ra hay chỉ lộ phần lớn ở cõi thượng trí. Khi đó tôi thấy cần phải kinh nghiệm ở hai cảnh giới gần như riêng biệt, một là cái hoàn toàn vô sắc tướng, hay cái nguyên lý của vị nữ thủy thần của một nước hay một vùng rộng lớn, và hai là sự biểu lộ nguyên lý xem ra có mức tiến hóa thấp hơn thỉnh thoảng gặp ở những chỗ đặc biệt, mang hình thể riêng với hào quang và luân xa như đã tả ở phần tước.
Khi thử xem xét, tôi thấy nước dù ngọt hay mặn, thường có khuynh hướng ít phân hóa về dạng thức hơn là đất, không khí hay lửa, nhất là với đất. Không khí thì lại là cái ít sắc tướng nhất so với ngũ quan. Nếu kể luôn chất ether thì nó sẽ là chất vô sắc tướng. Về một mặt khác, tinh linh đất như gnome khi nhìn kỹ lưỡng thấy như có hình dạng giống người. Ta có thể nói tinh linh nước khi biểu hiện gần như không có hình dạng, chỉ thấy như dòng nước chảy hay lượn sóng.
Tiếp tục tìm hiểu, nay tôi thấy vị ‘nữ vương’ đại thiên thần là đấng có quyền uy hết sức rộng rãi, những đường lực dưới thấp giống như hình vỏ sò dợn sóng. Đột nhiên tôi có ấn tượng hết sức sâu xa ở vùng luân xa ‘tim’ mà nếu nhìn từ trước ra sau, nó quay ngược chiều kim đồng hồ. ‘Tim’ là trung tâm phóng lực ra ngoài từ những cõi cao, chúng hợp với chuyển động tròn của luân xa cho ra nhiều kết quả thật đẹp ‘mắt’và tuyệt vời. Mầu ở giữa là hồng đậm, mà cũng thấy ở bìa của những phần khác của luân xa. Hòa vào chung là những tia tuyệt đẹp màu xanh lục của biển, vàng óng, chúng cũng phóng hay xoáy ra ngòai từ giữa tâm luân xa, còn thì ở giữa có mầu xanh da trời xinh đẹp. Luân xa ‘cổ họng’ cũng thấy rõ, có mầu xanh da trời như ở người, chiếu vượt ra ngoài xa đôi ‘vai’. Những đường lực này cùng với tia ở ‘xương sống’ và ‘đầu’, túa lên và rải rộng trên cao trong không khí.
Gương mặt giống như người, tuyệt sắc và rực rỡ với đôi ‘mắt’ thật đẹp ở vị trí bình thường. Bên trên cái ‘trán’ rộng, từ trọn hào quang  có túa ra ngoài theo hướng ngang, thẳng đứng và đan lẫn vào nhau thành ‘vương miện’ chói sáng, tung cao lên trên xa ‘đầu’.
Nói riêng về ‘ngã’ thức của ngài, nó hoạt động ở cõi niết bàn, bồ đề và thượng trí, tuy thiên thần cũng ý thức được ở những cõi sắc tướng thấp hơn. Như vậy, tôi thấy trọn sự sống và dân cư của nước mặn và nước ngọt nằm trong sự hướng dẫn tiến hóa và sự chăm sóc thúc đẩy tiến lên, cùng ảnh hưởng của một cấp hùng mạnh gồm các Nữ Đại Thủy Thần.
Nhìn từ cõi cao, chất nước vừa nước mặn và nước ngọt ở gần đấng cao cả như vị tôi đang quan sát, liên tục nhận được những tia lực như được điện hóa ở cõi ấy. Thêm vào đó, bây giờ tôi thấy là tất cả cây cỏ, rong và những cơ cấu thích hợp khác cũng nhận được các năng lực giục giã sự tiến hóa. Thế nên tuy mới xem có vẻ lạ lùng nhưng các Nữ Đại Thủy Thần là tác nhân vừa truyền, vừa phát ra lực rất đỗi mạnh mẽ. Lực không những chỉ tác động lên sức sống bên trong nước mà cả những phát triển khi tiến hóa của mọi vật chất và hình thể liên hệ đến nước. Điều này áp dụng cho mọi phần nào của thiên nhiên đang sống, tăng trưởng và nẩy nở trong môi trường này.
Khi tìm cách hòa tâm thức mình vào các tiến trình ấy, tôi cũng nhận thức được sự hiện diện của các thiên thần, từ thủy thần đến những tinh linh đang sinh hoạt tương tự ở cõi ether. Lực từ Đấng thiêng liêng Duy Nhất chảy tràn qua các loài này, khơi dậy các khả năng tinh thần, trí tuệ và thấp hơn nữa trên đường tiến hóa.
Việc quan sát còn bất toàn và chưa đầy đủ, nhưng cho thấy đó là phần việc của vị nữ vương thiên thần, đấng mà tôi có đặc ân quan sát trong những lần đến thăm vùng tìm học. Phận sự này cũng áp dụng cho hàng ngũ thiên thần của thái dương hệ, hành tinh, càc loại sinh linh, cây cỏ và khoáng chất.
Vẽ lại cho chính xác phần bên dưới mặt nước của thiên thần là chuyện khó khăn. Phần trên của ngài ta đã nói, còn trong nước hào quang ngài như gồm các tia dợn sóng, mà không phải là những đường lực khá thẳng đầy màu sắc túa ra. Trong khi đó thân hình ở giữa vẫn giữ nét nghiêm nghị và cao cả.
Nhìn bằng thông nhãn, trọn phần dưới nước có màu xanh nhạt và lục rất thanh, hào quang  trong nước của thiên thần hiện rõ hơn với những đường dài, cong như lượn sóng. Lực tuôn phía trên chày dài và thanh nhã, còn ở dưới là những đường uốn khúc chảy xuống, không cho ta cảm giác có tứ chi. Những đường lực đi xuống này thấy đậm màu hơn phần trên của hào quang, có màu xanh và lục đậm, gần như là màu tím và lá sẫm.
Vị đại thiên thần rất đỗi cao cả này như dội vương miện là năng lực trắng và vàng túa lên trên ’đầu’, lẫn thấp thoáng mầu đỏ rực; những tia này cũng phát ra từ chỗ của ‘mắt’. Luân xa ở đỉnh ‘đầu’ thấy sáng chói hơn ‘vương miện’. Như đối với tất cả những thiên thần khác, phần hào quang như đôi cánh thấy rõ, ấy là những đường lực tuôn lên trên và cong ra ngoài, và bên ngoài hào quang là những tia mờ nhạt hơn tiếp tục bắn lên cao vào không khí.

MÃNH LỰC của ÂM NHẠC

Âm nhạc đẹp đẽ có thể cứu rỗi và âm nhạc xấu xa, thấp kém có thể làm hư hỏng con người, điều ấy cho ta biết mãnh lực của nhạc to lớn là dường nào. Nhạc sinh ra ảnh hưởng mạnh mẽ, thấu nhập vào hào quang mọi sinh vật trong vòng ảnh hưởng, khêu gợi nên hồi đáp tương ứng, và trong một số trường hợp, khuấy động tình cảm và trí não người nghe.Những đường lực hùng mạnh đi từ nguồn âm thanh vào hào quang người, tạo ra đáp ứng về thể chất, tâm linh và trí tuệ. Ngoài ra cũng phải kể đến ảnh hưởng của nhạc trên cả thiên nhiên.
Bài hát do ca sĩ trình bầy hay bản nhạc do nhạc sĩ dạo đàn, phát ra những giải lực hoặc tốt lành, trung tính hoặc có hại lên thể người nghe. Cử tọa hoặc nẩy sinh lòng ao ước, yêu mến thiên nhiên, hay có dục vọng thấp kém; lực kích thích các luân xa tương ứng và cơ quan trong thể xác con người. Loại nhạc thuận hòa, vui tươi sinh ra niềm hân hoan và nâng cao con người, ảnh hưởng vào phần trên của hào quang là các luân xa tim, cổ họng và đầu, lên tới Chân nhân. Nhạc thấp kém, thô bạo rất có hại, nhất là cho phần thấp của hào quang và thể xác.
Việc nghiên cứu cho tôi thấy nhạc là một uy lực dũng mãnh trong tay nhạc sĩ. Nó nâng cao và làm ta giác ngộ hay làm ta xấu xa hơn tùy theo tính chất loại nhạc, tư tưởng, ảnh hưởng và tính tình của người trình diễn lẫn người nghe.
Hẳn đó là chuyện tự nhiên vì âm thanh tạo nên vũ trụ và những gì trong đó, rồi hàng ngũ thiên thần âm nhạc nương theo các thiên ý mà xếp đặt vật chất làm thành nhiều cảnh giới. Hơn nữa ta cũng tin được rằng trong khi trình diễn, mỗi nhạc sĩ chân chính liên kết được với thiên thần âm sáng tạo, và trở thành con kinh cho ảnh hưởng nâng cao của các ngài. Vì vậy nhạc sĩ có thể được xem là tác nhân hữu hiệu, qua đó năng lực sáng tạo tuôn vào thế giới và sự sống con người, mà kết quả lại còn hơn nữa khi lực mang nét tinh thần. Tuy thế cần nhớ rằng giống như sự sáng tạo vũ trụ, các đại thiên thần và thiên thần âm nhạc chỉ dự vào loại nhạc thanh khiết, cao đẹp nhất.
Nhiều thiên thần khác cũng thấy rõ là có liên hệ với âm nhạc, đặc biệt là những vị can dự vào cái mà tôi gọi là hình học sáng tạo, theo quan niệm triết lý của Plato là Thượng Đế sinh ra thế giới theo phép hình học. Tâm thức các ngài phần lớn chỉ sinh hoạt ở cõi trí mà thôi. Thiên thần dự vào việc sinh ra những hình kỷ hà phức tạp, liên kết với sự biểu lộ Thiên Ý nơi cõi vật chất khi âm phát ra. Nhà soạn nhạc và nghệ sĩ trình diễn cũng tiếp xúc với các vị, và có lẽ những nhân vật cao cả đã và sẽ được gợi hứng, không phải chỉ từ Chân nhân bất tử của mình, mà còn từ các thiên thần này.
Khi tâm trí tiếp xúc được với các ngài, hiểu biết đến từ bên trong thay vì đi vào từ bên ngoài. Việc xảy ra cũng không phải do thông nhĩ, vì ta không nghe một âm huyền bí nào. Trong lúc tiếp nhận, người ta cảm biết chỉ dạy từ ngoài đi vào trí não, dù vậy, mối liên lạc tâm linh tinh thần thực ra được khơi từ bên trong trí não của người nhận. Nó tương tự như thầy hỏi trò: ‘Con có thấy ngọn hải đăng kia không ?’, và được trả lời, ‘Vâng, con thấy hải đăng và cùng lúc cả ánh sáng chiếu ra từ bên trong nó.’
Quan sát bằng thông nhãn cho tôi thấy là âm thanh phát ở cõi trần có tính sáng tạo, sinh ra chuyển động, màu sắc, và hình thể bằng chất liệu tình cảm và trí tuệ. Trong một buổi họp mặt và được nghe người bạn hát bài ‘Ave Maria’, tôi thấy một thiên thần xinh đẹp với màu chính là xanh dương, nhưng cũng có nhiều màu do bài hát sinh ra, lượn trong không chừng 70 cm đằng sau và hơi về phía bên trái của ca sĩ, đầu cũng cách khoảng y vậy với đầu của cô. Thiên thần cảm ứng với nhịp của bài, trọn hào quang gợn uốn theo nhịp. Một ngôi sao năm cánh sáng rực nằm trên trán thiên thần, ngài ban ân lành cho ca sĩ, và qua đó lan vào cử tọa. Tôi đoán thiên thần ở trong nhóm làm việc dưới quyền của Đức Mẹ, vì vậy mang ân lành của ngài đến cử tọa qua ca sĩ.
Hào quang của bốn người hiện diện nơi đây bắt đầu nhuộm phía trước với mầu xanh Đức Mẹ. Nó rực rỡ và không thể vẽ cho bằng, hết sức sâu đậm, làm như chiếu sáng từ bên trong và hào quang chúng tôi bừng lên do ảnh hưởng đó. Trong lúc tả lại, tôi kính cẩn ý thức là vào các buổi họp đặc biệt này, Đức Mẹ đã làm cho Chân nhân chúng tôi cảm biết được sự hiện hữu tuyệt vời của ngài. Tôi nghĩ mình có thể nói khá đúng là theo mức độ đáp ứng, những ảnh hưởng trên cũng sẽ sinh ra cho bất cứ nghệ sĩ trình diễn và cử tọa nào nghe bài hát đẹp đẽ này, dĩ nhiên là phải kể đến thái độ bài bác tôn giáo và không tin sự hiện hữu của ngài. Những ý trên có trong hào quang người, gần cho ra phản ứng tiêu cực nhưng không ai là người hoàn toàn không đáp ứng với bản nhạc.
Trong lúc bản nhạc được tiếp tục trình diễn, tôi thấy nó thu hút được thiên thần, làm các vị chú ý, gợi ý tâm thức thiên thần hòa theo ý niệm về đấng cao cả được gọi là Đức Mẹ Thế Giới. Ở những cảnh giới cao, mầu áo xanh tuyệt đẹp của Đức Mẹ hóa rõ hơn, cũng như sự hiện diện của những thiên thần đường bệ cùng màu đó. Tôi thấy họ chú ý đến phần nhạc thuần túy và chủ đích của nhạc sĩ cùng nghệ sĩ trình diễn, hơn là tới chính cá nhân trình diễn hay cử tọa. Rất có thể là mỗi người riêng rẽ, nhất là phụ nữ, có thể nhận được sự giúp đỡ của các thiên thần.
Tôi cho rằng bản nhạc này là cái nối liền giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài, và do đó, buổi trình diễn hôm này đầy tính chất tinh thần. Không có cách chữa trị nào tốt hơn cho phụ nữ trong lúc phiền muộn, đau ốm hay có những nhu cầu khác, cho bằng dự buổi trình diễn loại nhạc đẹp đẽ như bài ‘Ave Maria’, tuy rằng ảnh hưởng luôn luôn tùy thuộc phần lớn vào tâm tưởng và khả năng của người trình bầy.
Có trường hợp tôi lạ lùng thấy nhạc có khả năng gợi lại quá khứ ghi trong Thiên Ảnh ký Akasha Records. Khi nhạc thuộc về một quá khứ có tính chất sâu đậm, rõ ràng, được trình diễn, nó làm người có khả năng quan sát thấy lại được quá khứ có liên hệ đến nhạc. Trong trường hợp này tôi thấy một nhóm người giống như dân du mục đang nhẩy múa trong vườn và cả xa hơn nữa.
Ở bên ngoài ngôi nhà và đằng sau cửa sổ tôi thấy họ có điệu nhẩy cuồng loạn, khác với ý chính của bản nhạc. Dường như nó có liên hệ chi đó với đời sống của nhóm du mục đông đảo, huyền bí, ăn mặc sặc sỡ, giờ đang quay tít tràn khắp chung quanh. Khoảng hơn chục người tỏ ra thật hứng chí, ca hát, gào to trong lúc nhẩy. Cảnh liên hệ đến hồi ức của nhạc.
Như vậy, hiển nhiên là nhạc xưa có hồi ức của nó, và khi chơi bản nhạc như vậy, sự việc gợi nên cái hồi ức trong chất akasha quanh buổi diễn, làm nó phát ra vài hình ảnh ban đầu. Chuyện sẽ rất quan trọng khi nhạc thuộc loại tinh thần sâu đậm, có tính huyền bí, vài bản như vậy rất xưa, khi chơi lại chúng sinh ra trong akasha vài biến cố và không khí của bản nhạc hồi nguyên thủy. Tôi cho là thánh ca, kinh cầu, bài xướng đều cũng có ảnh hưởng trên akasha.
Chẳng hạn trong một dịp khác khi bản thánh ca chấm dứt, tôi thấy mình thay vì trong phòng ở nhà chỗ nghệ sĩ đã hát, lại đang đứng trong một vương cung thánh đường to lớn cổ xưa với nhiều thiên thần. Tôi đứng chỗ ban đồng ca, với bàn thờ chiếu sáng ở cõi trí thành khung cảnh kỳ diệu bao quanh chúng tôi trong nhà thờ. Cũng có một ban đồng ca đang hát và các thiên thần uy nghi đáp ứng lại khúc hát của ban. Bàn thờ rực lên ánh vàng chói và buổi ca chầu diễn ra hết sức tuyệt vời.
Vương cung thánh đường đầy gần hết chỗ, bây giờ tôi thấy các thiên thần nói trên thuộc ngành thiên thần liên hệ với loại nhạc này. Bài đang hát đã nối chúng tôi với thời gian trong akasha, khiến về một mặt tôi thấy mình đang ngồi trong vương cung thánh đường oai nghi, cổ kính, với đầy đủ giáo dân ở đâu đó vùng trung Âu, có thể là miền nam nước Đức. Bài đang hát ở New Zealand nay trong linh ảnh tôi thấy được ca đoàn ở vương cung thánh đường xướng lên, ca đoàn rất đông thành viên, có vài người già, một số giọng trầm, cùng hát với các chú nhỏ ở hai bên lối đi,
Như vậy, đây là cơ hội tuyệt diệu mà tôi có đặc ân được nối kết lại với thời điểm mà bản nhạc nằm trong ký ức của giáo dân dự lễ.
Bây giờ khi tôi lần lần cố ý rút tâm thức khỏi kinh nghiệm đầy hứng khởi và hoàn toàn mới mẻ này, thấy rõ ràng là nhạc nối ta với quá khứ, và bằng cách nào đó, gợi nên trong akasha làm hiện trở lại những cảnh ban đầu hồi bản nhạc được trình diễn.
Quan sát trong một buổi hát khác cho thấy là ảnh hưởng của nhạc lên cử tọa, tùy thuộc vào số nhạc khí và âm lượng. Có nghĩa năng lực phát ra ở cõi tình cảm và cõi trí và hình sinh ra có khuynh hướng tràn vào, chảy xuyên qua hào quang của người nghe trong vòng ảnh hưởng. Với ban đại hòa tấu, kết quả cho ra có thể rộng mấy trăm thước, tạo một hình âm nhạc hết sức kỳ thú trong không trung.
Trong một hình thể như vậy, mỗi nốt nhạc vang lên ở cõi trần có nốt tương ứng cùng tần số ở những cõi khác, nên khi một nốt được tấu lên gây âm vang thì những nốt tương ứng đó cũng vang lên, đóng góp vào hình âm nhạc. Thành ra bây giờ tôi hiểu vì sao có nhiều màu khác nhau không ứng với một nốt riêng rẽ nào, mà là của nốt tương ứng phản ảnh ở cõi cao, làm hình một nốt luôn phức tạp.
Ở một buổi trình diễn thánh ca khác, bài ‘Pie Jesus’ của Fauré khi mới bắt đầu tôi thấy có một thiên thần xuất hiện nơi cửa. Tội tự động cúi người chào nhưng phải quay lại chú tâm vào hình âm nhạc, tuy vậy tôi biết ngài vẫn còn đứng đó. Tôi nhận ra thiên thần thuộc về ngành liên hệ với nguyên lý nữ và sinh hoạt tôn giáo, dưới quyền Đức Mẹ. Vì vậy hào quang của ngài có màu xanh áo Đức Mẹ nổi bật.
Thân ở giữa của thiên thần cao gần 3 m, đầu và vai phủ bởi những vòng đồng tâm nhiều mầu sắc túa năng lực ra ngoài. Hào quang màu vàng óng gần đầu và vai một khoảng hơn 30 cm, rồi có mầu hồng một khoảng chừng 15 cm, ra xa nữa là sắc xanh lục rực rỡ. Đầu là trung tâm uy lực, giữa đầu là một đường lực hình nón phóng thẳng đứng lên trên, màu chính là là trắng và tím nhạt.
Hào quang của thiên thần lan ra bên ngoài tường, bên trên trần nhà và đi sâu quá sàn nhà. Tôi cho rằng một trong những nhiệm vụ của ngài là tuôn năng lực, mà ngài là trung gian, vào tâm thức và hào quang của cử tọa, những ai có thể đáp ứng lại ảnh hưởng của Đức Mẹ và uy lực tinh thần của hạng thiên thần này. Trong tâm tưởng ngài, Đức Mẹ ôm trọn toàn thể nhân loại vào lòng, nhất là trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Hệ thống tương giao giữa tâm thức cao và thấp thành hình, bất cứ khi nào có lực thích hợp được phóng thích vào thế giới hình thể. Những lực này sinh ra do tâm thức, tư tưởng, và chủ ý của việc hát và nhạc. Tới đây tôi ý thức là tên bản thánh ca nói lên sự tương giao ấy, cái mà ta có thể coi là ảnh hưởng của nhạc lên người nghe. Tùy theo đáp ứng và nhận thức của mình, cử tọa chẳng những có cá tính được thúc đẩy về mặt nào đó, mà còn được các thiên thần, đại thiên thần nhất là thiên thần nhạc, thiên thần âm thanh hỗ trợ thêm.
Tôi hỏi thiên thần:
– Nhạc có gợi nên phản ứng nào trong đức Jesus không ? Ngài đáp:
– Dĩ nhiên là có, nhưng Chân Sư không có liên hệ đặc biệt với nguyên lý nữ như Đức Mẹ, hay với việc làm mẹ. Ngài bận tâm lo cho công việc của Thái Dương Thượng Đế nói chung, làm việc nhiều hơn điều ta biết về ngài. Thành ra Chân Sư có khuynh hướng lưu tâm đến lòng sùng kính dâng lên ngài hơn.
Hỏi:
– Chính đức Jesus có đáp ứng chăng khi bản nhạc với tựa là tên ngài được chơi ?
– Có, nhưng nó tác động bên trong người nghe, thay vì bên ngoài, tâm và trí được tỏ ngộ nếu người nghe có thể đáp lại cả ở cõi trần lẫn cõi cao. Như vậy Chân Sư đáp ứng ở những cõi trừu tượng, trong nội tâm hơn là thấy được ở ngoại giới, cõi hữu hình.
Hiển nhiên Đức Mẹ Thế Giới cũng làm y vậy, dùng hàng ngũ thiên thần để ảnh hưởng và soi sáng nhân loại, truyền đến con người tình mẫu tử, lòng tận tụy bao la, xả kỷ. Tôi cho là Đức Mẹ vừa trực tiếp, vừa qua các thiên thần, giữ cho mối liên hệ giữa ngài và nhân loại mà ngài hằng yêu thương, che chở được liên tục không đứt đoạn. Chuyện đặc biệt hơn nữa khi có liên hệ đến việc sinh nở, trẻ con và việc làm cha, làm mẹ. Trong khi lắng nghe và quan sát hính âm nhạc, tôi ý thức đó chỉ là một phần trong công việc chăm sóc nhân loại của ngài.
Để kết luận, một trong những ảnh hưởng của âm nhạc là làm gợi dậy bên trong người nghe những tâm thức ứng hợp, từ thô bạo đến cõi mỹ lệ và chân lý, tùy theo khả năng đáp ứng của họ đối với tác động của thiên thần. Bởi vậy nhạc đẹp đẽ là vận cụ tuyệt hảo để kích thích sự thức tỉnh ở cõi cao, cải thiện và thanh tẩy cái ngã, cùng tăng gia đáp ứng về mặt tinh thần.
Âm nhạc nào khích động phần bản tính thấp của con người có thể hóa rất độc hại, trong khi thánh ca, nhất là những bản liên hệ tới đức Jesus và Đức Mẹ, kêu gọi được ân lành và sự hồi đáp của thiên thần. Những loại nhạc khác gợi nơi người nghe trong tâm họ hồi đáp của bậc cao cả và chư thiên. Câu nói sau quả đã trình bầy chân lý, ‘Nhạc hay là lời Thượng Đế ngỏ cùng linh hồn ta.’
Một nguyên lý thích thú nẩy sinh từ những quan sát này. Ấy là nhà soạn nhạc sinh ra và củng cố hình tư tưởng của bản nhạc, một phần do việc tâm thức của ông làm việc trong lúc soạn nhạc, một phần do việc ông trình diễn tác phẩm của mình. Có nghĩa là hình tư tưởng của bản nhạc, là cái biểu lộ bằng chất liệu thanh bai một phần ý tưởng sáng tạo cùng hứng khởi của ông, một phần là ảnh hưởng của âm vật chất sinh nơi cõi trần tác động lên cõi thanh.
Ý tưởng của nhà soạn nhạc, và tác động siêu hình của nhạc kết hợp lại sinh ra hình nguyên thủy, có chứa đựng sức sống và tâm thức của Chân nhân ông, cái là linh hồn bản nhạc và là một thực thể tương đối trường tồn. Cho nên bất cứ nơi nào và bất cứ khi nào bản nhạc được trình diễn, người ta thông thương được tức khắc với hình, và qua đó với sức sống và tâm thức của người nhạc sĩ.
Dùng các nguyên tắc về thuật linh thị - psychometry khi có buổi trình diễn như vậy, người quan sát có thông nhãn có thể tiếp xúc với hình nguyên thủy và tác giả. Và dù hữu thức hay không, người trình diễn tự động liên lạc được với nhà soạn nhạc. Xem ra mức độ thành công khi chơi một bản nhạc, tùy thuộc vào khả năng của nhạc sĩ trong việc tiếp xúc, và diễn tả lại sức sống cùng tâm thức của nhà soạn nhạc, và qua đó, ngụ ý của ông.
Chất liệu cõi tình cảm rung động thành lượn sóng màu, do đáp ứng trực tiếp với bất cứ nốt nào làm vang lên âm thanh cõi trần. Khi nhiều âm được tạo, xếp đặt thành bản nhạc, ý tưởng vừa tình cảm vừa trí tuệ của nhà soạn nhạc, rồi sau này của người chơi nhạc, cung cấp lực cần thiết để sinh ra hình rõ ràng. Người có thông nhãn thấy được hình ấy và nó tồn tại một thời gian dài đáng kể sau khi bản nhạc đã chơi xong.

Xem Hình Vẽ Thiên Thần theo Thông Nhãn Ông Geoffrey Hodson